Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai – Manh phái phần 4

Manh Phái, như tên gọi, là phái của người mù. Như tương truyền, bí kíp luận mệnh của người mù như thần làm cho người ta phải há hốc kinh ngạc. Manh sư – tức người thầy mù – chỉ dạy cho người mù, dù người sáng mắt muốn học họ cũng không dạy. Phần 4: Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai.

Tứ trụ Tử Bình là một môn Mệnh lí dự đoán Vận Mệnh của đời người có từ hơn ngàn năm nay, kể từ khi ông Tử Bình phổ biến phương pháp luận mệnh quay xung quanh Trụ Ngày (tức Can Chi Ngày sinh), là một bộ môn khác hẳn Tử Vi mà mọi người rất quen thuộc.

Bộ môn này lại có rất nhiều phái có cách dự đoán khác nhau, như phái Cách Cục, phái Vượng Suy, Cùng Thông phái … và cả Manh Phái.

Manh Phái, như tên gọi, là phái của người mù. Như tương truyền, bí kíp luận mệnh của người mù như thần làm cho người ta phải há hốc kinh ngạc. Manh sư – tức người thầy mù – chỉ dạy cho người mù, dù người sáng mắt muốn học họ cũng không dạy.

Phần truyện dưới đây là một trong những nhân chứng về việc Luận mệnh bằng Tứ trụ thời đại ngày nay, được cô Hình Minh Phấn ghi chép lại trong cuốn “Mệnh thuật dật văn” (Những điều nghe được về mệnh thuật), Hạ Trọng Kì bốc mệnh di lệ tập của tác giả Hình Minh Phấn và Đoàn Kiến Nghiệp. Cô Hình Minh Phấn là người họ hàng xa của manh sư Hạ Trọng Kì, tuy không được nhận làm đồ đệ của ông và không được ông truyền bí kíp, nhưng cô được phép ở bên ông nghe ông đoán Vận Mệnh của khách hàng trong nhiều năm và ghi chép lại.

Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai - Manh phái phần 4
Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai

Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai

Có người từng hỏi tôi, rốt cuộc trong đời người có mấy phần là do vận mệnh quyết định, mấy phần là do bản thân mình có thể chi phối? Tôi nói, về cơ bản những việc lớn là do mệnh quyết định, những việc nhỏ là do mình quyết định. Cuộc đời của chúng ta phần lớn là do cảnh ngộ, môi trường, những người và vật xung quanh ta quyết định, mà mối quan hệ xã hội của tất cả những điều này không phụ thuộc vào bản thân chúng ta, cái mà mệnh lí học nghiên cứu chính là những thứ đó. Sự khác biệt về nhân tính giữa một người chăm chỉ cần mẫn và một người lười nhác kém cỏi vận mệnh sớm đã an bài, cái gọi là sự nỗ lực của cá nhân thực ra đã nằm trong vận mệnh, huống hồ rất nhiều việc không phải cứ nỗ lực là có được thành công. Từ những lời đoán của thầy Hạ chúng ta có thể nhận thấy điều này một cách rõ ràng.

Năm 1992 (Nhâm Thân) có một người phụ nữ trung niên gần 50 tuổi tìm thầy Hạ xem mệnh, cô này họ Nghiêm, cao khoảng một mét bảy, phía dưới bên trái khóe miệng có một nốt ruồi đen to bằng hạt đậu tương trông rất rõ.

Bát tự của cô: Giáp Thân, Giáp Tuất, Mậu Ngọ, Tân Dậu.

Tứ trụ Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai
Tứ trụ Hết ngày bĩ cực tới ngày thái lai

Thầy Hạ nghĩ một lát và bắt đầu xem cho cô ta: “Nhà cô có ba chị em, cô là chị cả. Cô kết hôn vào khoảng 19 đến 20 tuổi, có đúng không?” Cô Nghiêm gật đầu. Thầy Hạ nói tiếp: “Chồng cô mất vì tai nạn, năm 28, 29 tuổi cô bắt đầu ở góa.” Cô Nghiêm trầm ngâm không nói gì, đôi mắt rưng rưng lệ.

“Cô có một người con gái, trong 20 năm kể từ sau khi chồng cô mất, cô ở vậy nuôi con, con cô năm nay có hạn.” Thầy Hạ là vậy, xem mệnh luôn nói thẳng không kiêng dè.

“Thầy xem là hạn gì?”

“Hạn về tính mạng.” Thầy Hạ xuống giọng: “Theo tôi xem thì cháu nó đã mất rồi.”

Thầy Hạ vừa nói xong, cô Nghiêm liền bật khóc, cô vừa khóc vừa nói: “Lúc 29 tuổi, chồng tôi chết vì tai nạn giao thông để lại đứa con, hai mẹ con nương tựa nhau mà sống, khó khăn lắm mới nuôi được nó khôn lớn trưởng thành, chẳng ngờ năm nay xảy ra chuyện, nó vì chuyện tình cảm mà nghĩ quẩn đã treo cổ tự tử! Thầy xem sao số tôi nó khổ thế này, thầy xem giúp tôi, tôi là cái mệnh gì vậy trời” Đợi cô Nghiêm bình tĩnh hơn, thầy Hạ mới từ từ nói với cô: “Đừng buồn nữa, mệnh cô là như vậy, mệnh chết một con.”

Cô Nghiêm nói: “Tội lỗi trước kia tôi đã chịu đủ rồi, thầy xem tôi về sau đi, mệnh tôi bao giờ mới hết khổ?” Thầy Hạ bấm tay tính một lúc và nói: “Cô khổ tận cam lai rồi, đến năm cô 54 hoặc 55 tuổi, cô sẽ tìm được một người bạn đời, và cùng ông ấy xây dựng một gia đình hạnh phúc mĩ mãn, trong mệnh cô còn có một đứa con trai, có thể phụng dưỡng cô đến tận cuối đời.”

Quả nhiên, đến năm cô Nghiêm 55 tuổi, cô tìm được một người bạn đời rất tốt, ông ấy kiếm được nhiều tiền, cuộc sống vô cùng sung túc. Ông này góa vợ, có một đứa con trai. Nói ra thì cũng thật là lạ, cậu con trai này không hề có chút máu mủ gì với cô Nghiêm, cũng không phải do cô nuôi lớn, nhưng lại đối xử với cô rất tốt như với mẹ đẻ vậy. Những chuyện này do chính cô Nghiêm sau này nói với tôi, rất lâu không gặp nhưng cô ấy trông lại trẻ hơn trước. Thực là thời vận xoay vần!

Phân tích học thuật nguyên bản

Họ Đoàn chú giải: Trước tiên phải liệt kê lục thân đối ứng với bát tự của tạo này. Coi Giáp Mộc là người chồng đầu tiên, Giáp Tuyệt ở thân mà Tử ở Ngọ, còn bị Tân Kim khắc ắt khó giữ mạng, nên chết vào vận Tân Mùi, Giáp nhập Mộ. Có người sẽ hỏi, Giáp Mộc và Ngọ ở cung phu thì có quan hệ gì? Tại sao lại coi là chồng? Giáp Mộc và Ngọ có quan hệ trực tiếp, nhưng nó tọa Tuất, Tuất là Mộ của cung phu, lại hợp cục với cung phu, Tuất là cung phu phụ, nên Giáp Mộc được coi là chồng.

Vận chồng đầu mất, vận Tân Mùi

Vận mất chồng 1

Vận con gái mất, năm Nhâm Thân 1992

Coi Thân Kim là con gái cô ấy, Tuất Thổ không sinh Kim mà còn làm khô Kim (táo kim), đến vận Kỉ Tỵ Tỵ Hỏa hợp khắc Thân, Thân khó mà tồn tại, năm Nhâm Thân là đến thời gian ứng nghiệm.

Vận con gái mất

Người chồng đầu tiên là Giáp, vậy người chồng thứ hai xem như thế nào? Tại sao phải đợi đến tận năm 54 tuổi vận Mậu Thìn mới có thể kết hôn?

Quan điểm của tôi là, khi cung phu xuất hiện hai cung chính phụ, phải lấy cung phu thứ hai để luận người chồng thứ hai, phu tinh (sao chồng) phải xem xoay quanh cung phu này. Tạo này nên lấy Dậu làm phu tinh thứ hai, trong cục Dậu Tuất xuyên, đến muộn, đến vận Mậu Thìn Tân Dậu được sinh, xung khứ Tuất thổ, nên thành hôn. Đồng thời, Dậu Kim đại diện con trai, con trai và chồng cùng tới, nên có con kế. Vì trụ Tân Dậu là hỉ dụng thần của bát tự nên chồng và con đối xử với cô ấy rất tốt.

*+*+*+*

Lời bình của fengshuikiman

Trong các chuyện kể của cô Phấn, phần lớn đều theo tư tưởng “số mệnh đã đặt”. Trên thực tế, con người bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố: Thiên – Địa – Nhân.

Số mệnh thuộc về Thiên, thể hiện ở lá số Tứ trụ, chiếm phần quyết định quá nửa. Còn gần nửa còn lại thuộc về Địa và Nhân.

Địa là nơi con người sống, có ảnh hưởng rất lớn tới con người đó. Nếu bạn chọn ở và làm việc đúng nơi Dụng Hỉ thần của bạn thì mọi việc sẽ suôn sẻ rất nhiều, đó là Phương vị Cải Mệnh. Ngoài ra Phong Thủy Dương trạch và Âm trạch đóng vai trò ảnh hưởng xấu tốt rất lớn mà ít người để ý đến.

Nhân là do chính bản thân ý thức, ý chí của một người ảnh hưởng tới số mệnh của người đó. Nếu người đó biết rõ Vận Mệnh của mình và tìm cách cải tạo Vận Mệnh thì rõ ràng hơn rất rất nhiều người không biết hoặc không làm gì để cải thiện Vận Mệnh.

Yếu tố Thiên có sẵn, định bằng Năm Tháng Ngày Giờ sinh là yếu tố bạn không thể thay đổi được. Nhưng với hai yếu tố Địa – Nhân, bạn hoàn toàn có thể can thiệp được nếu bạn muốn.

“Không phải cứ nỗ lực là có thành công” – cô Phấn nói đúng nhưng có lẽ không nghĩ xa hơn.  

Nỗ lực không có định hướng không dễ thành công.

Nỗ đúng hướng, đúng thời cơ địa điểm, đúng Dụng Hỉ thần của mình, Làm đúng lúc, vào đúng lúc, ở đúng chỗ chắc chắn sẽ thành công.

Ở trên là chuyện luận Mệnh Manh phái phần 4, nếu hứng thú, bạn có thể xem Manh phái phần 3, Mệnh giang hồ – Trùm xã hội đen.